tháng 7 2013

Nhiễm herpes sinh dục nữ và dùng thuốc

Herpes simples virus (HSV) gây ra  herpes sinh dục  nữ cũng như gây ra các bệnh viêm não, loét giác mạc mắt cho trẻ bị lây nhiễm HSV từ mẹ. Do ngại độc, ngại không an toàn với thai, nhiều người bệnh đã không dùng thuốc sớm, thiếu tích cực và kiên nhẫn nên bệnh hay tái phát, lây nhiễm  rộng trong cộng đồng và cho trẻ sơ sinh.
Tình trạng nhiễm HSV
HSV có 2 loại: HSV1 lây truyền qua miệng, qua nước bọt. HSV2 lây truyền qua sinh hoạt tình dục. Trước đây, HSV2 được cho là tác nhân chủ yếu gây herpes sinh dục. Ngày nay, các trường hợp  nhiễm HSV1 sinh dục ngày một gia tăng, vượt quá 50% trong dân số nữ nên HSV1 cũng được xem là tác nhân gây ra loét sinh dục tái phát. Khoảng 70% số người lành nhiễm HSV nhưng không có triệu chứng. Khi sức khỏe giảm sút, có cơ hội thuận lợi, các HSV có sẵn trong cơ thể sẽ gây ra mụn rộp ở bộ phận sinh dục và các bộ phận khác. Có 40% số người nhiễm HSV lần đầu sẽ tái phát thành viêm loét sinh dục trong năm đầu (Benedetti J-1994).                            
Nhiễm herpes sinh dục nữ và dùng thuốc 1
Ảnh minh họa
Tỉ lệ nhiễm HSV ở nữ rất cao không chỉ  ở các nước đang phát triển mà cả ở các nước phát triển. Tại Việt Nam, theo điều tra của Bệnh viện Từ Dũ trên 1.135 nữ (15 - 69 tuổi)  thấy nhiễm HSV1 98% nhiễm HSV2 là 35,2% tương đương với Hà Nội lần lượt là 99 - 11,3%. Tại Canada, nhiễm HSV1 là 51,1%, HSV2 là 9,1% (Howard M-2003), tỉ lệ thai phụ nhiễm HSV là 17,3% (Patrick DM -200).
Tốc độ nhiễm HSV tăng rất nhanh trên toàn cầu: Anh  tăng 6 lần  (1972 - 1994), Mỹ tăng 9,43 lần (1970 - 1994);  tốc độ tăng trong giai đoạn sau có giảm hơn trước, song vẫn còn nhanh: Pháp nhiễm HSV2 tăng gấp đôi (2000 - 2010).Việt Nam, ước nhiễm HSV (cả nam và nữ)  tăng 30% (1985 - 2010).
Nhiễm  herpes sinh dục sau 2 - 7 ngày thường có biểu hiện đau và ngứa. Vài giờ đến vài ngày sau giai đoạn đầu này thì vết loét  xuất hiện. Đầu tiên chỉ là một chỗ sưng đỏ nhỏ, mềm, đau, rồi trở nên mọng nước trong vòng một vài ngày; sau đó chúng vỡ miệng, trở thành vết loét, gây rỉ dịch hoặc chảy máu. Ở nữ, vết loét có thể ở vùng âm đạo, cơ quan sinh dục ngoài, mông, hậu môn, hoặc bên trong cổ tử cung. Ở nam, vết loét có thể ở dương vật, bìu, mông, hậu môn, đùi, niệu. Vết gây ra đau đớn rất nhiều khi đi tiểu; gây cơn đau đớn và nhiều cảm giác khó chịu khác ở vùng sinh dục.Trong giai đoạn bột phát, có thể có các triệu chứng nhiễm virút thông thường giống bệnh cúm, gồm sốt, nhức đầu và nổi hạch bẹn. Các dấu hiệu, triệu chứng trên có thể tái phát không thường xuyên, có thể qua hàng năm hay hàng tháng làm cho chất lượng cuộc sống người bệnh  bị giảm sút nghiêm trọng. Khoảng 30 - 40% số thai phụ nhiễm HSV có nguy cơ truyền bệnh cho con (qua cuống rốn hay lúc sinh), tập trung vào các tháng nửa sau thai kỳ gây viêm não, tổn thương não, loét giác mạc, mờ mắt hay tử vong cho trẻ.
Theo đó, việc điều trị nhiễm HSV rất cần thiết, đặc biệt càng cần thiết ở phụ nữ mang thai.
Các thuốc kháng HSV thường dùng
Bao gồm: acyclovir, famcyclovir, valacylovir.
Acyclovir:
Về dược tính: chất tương tự nucleosid (acycloguanosin), có tác dụng chọn lọc trên tế bào nhiễm HSV. Khi vào cơ thể, chuyển thành acyclovir monophosphat nhờ enzyme thimidinkinase của virút; sau đó chuyển thành aciclovir triphosphat nhờ các emzyme khác của tế bào. Acyclovir triphosphat ức chế tổng hợp DNA, ngăn cản sự nhân lên của virút mà không ảnh hưởng gì đến chuyển hóa của tế bào bình thường.
Acyclovirc tác dụng mạnh nhất với HSV1, kém hơn với HSV2, đặc biệt  có tác dụng tốt trong viêm não do HSV1 (làm giảm tử vong từ 70% xuống 20%, giảm tỉ lệ các biến chứng nghiêm trọng trên những người được chữa khỏi), cũng có tác dụng tốt trên thể viêm mãng não nhẹ hơn do HSV2.
Trong nhiễm HSV, acyclovir được dùng điều trị khởi dầu và dự phòng tái phát HSV2 đường sinh dục; điều trị khởi đầu và dự phòng tái nhiễm HSV1 và HSV2 ở da  niêm  mạc, viêm não do HSV1, viêm  màng não nhẹ do HSV2.
Về cách dùng: nguyên tắc: phải dùng sớm ngay khi có triệu chứng, dùng liều cao vì thuốc phân bổ rộng trong các dịch (âm đạo, nước mắt, thủy dịch, tinh dịch, dịch não tủy) và trong các tổ chức (não, thận, phổi, ruột, gan, lách, cơ, tử cung, niêm mạc), sinh khả dụng  đường uống trung bình 20% (15 - 30%). Phải dùng nhiều lần trong ngày vì chu kỳ bán thải ngắn (người lớn khoảng 3 giờ, ở trẻ em 2 - 3 giờ, ở trẻ sơ sinh 4 giờ). Phải dùng kéo dài đúng theo liệu trình (có thể dùng lặp lại khi bệnh tái phát hay dùng dự phòng hàng ngày ở liều thấp hơn, một vài trường hợp có khi còn dùng hầu như suốt đời theo từng định kỳ vì thuốc chỉ ổn định song không chữa khỏi hẳn bệnh). Theo đó, tùy theo tình trạng bệnh mà chọn cách, dạng, liều dùng thích hợp.
Dạng thuốc uống: trong đợt lâm sàng nhiễm herpes sinh dục đầu tiên: dùng 400mg x 3 lần/ ngày x 7 - 10 ngày. Sau đó có thể dùng trong từng đợt tái phát (400mg x 3 lần/ ngày x 5 ngày) hoặc dùng theo kiểu điều trị “khống chế tái phát” (dùng hàng ngày, 400mg x 2 lần /ngày). Dùng kiểu “khống chế tái phát” sẽ hạn chế tần suất tái phát đến 70%. Trong lựa chọn, ngoài việc tính lợi ích điều trị, cần lưu ý đến chi phí vì thuốc khá đắt.
Dạng thuốc tiêm truyền tĩnh mạch: thường chỉ dùng trong trường hợp nặng như nhiễm HSV tiên phát ở miệng hay sinh dục, nhiễm HSV ở trẻ sơ sinh, viêm giác mạc nặng do HSV. Thí dụ trong viêm não do HSV1 dùng 10mg/kg và cứ 8 giờ dùng một lần trong 10 - 14 ngày.
Dạng thuốc dùng tại chỗ: cần dùng kết hợp với thuốc toàn thân (uống hay tiêm tùy trường hợp). Với thuốc mỡ dùng ngay từ khi có triệu chứng, bôi lên nơi tổn thương  5 -  6 lần/ngày  trong 5 - 7 ngày. Với thuốc mắt mỗi ngày tra 5 lần và tiếp tục tra ít nhất là 3 ngày sau khi đã dùng liều điều trị đầu.
Về tính an toàn: Acyclovir cơ bản có tính an toán khá cao. Dùng uống ngắn hạn hay dài hạn (1 năm) có thể gặp nuồn nôn, nôn, tiêu chảy, đau bụng, ban da, nhức đầu nhưng nhẹ; uống hàng ngày, kéo dài (6 năm) không thấy bị tai biến cấp hay mạn gì nghiêm trọng. Riêng trong truyền tĩnh mạch: thường gặp nhất là viêm tĩnh mạch ở vị  trí tiêm. Vì thuốc thải trừ qua thận nếu nồng độ cao sẽ gây kết tủa ở ống thận dẫn tới suy thận cấp nên liều dùng phải căn cứ theo hệ số thanh thải creatinin, tiêm truyền tĩnh mạch chậm (với thời  gian truyền trên 1 giờ ), tránh truyền nhanh hay truyền ngay một lượng lớn, khi dùng phải uống kèm đủ nước. Ít gặp hơn là các  phản ứng thần kinh - tâm thần (ngủ lịm, run, nhầm lẫn, ảo giác, cơn động kinh), tăng nhất thời ure, creatinin, enzyme gan trong máu. Nguy cơ suy thận tăng lên nếu dùng chung với các thuốc gây độc cho thận.
Valacyclovir:
Tiền chất của acyclovir, sản sinh ra acyclovir trong huyết thanh cao gấp 5 lần acyclovir. Vào cơ thể do phải chuyển hóa sang acyclovir mới có hiệu lực nên chậm hơn nhưng lại bền hơn. Liều dùng và số lần dùng trong ngày khác với acyclovir.
 Famciclovir:
 Vào cơ thể sẽ chuyển thành penciclovir có tác dụng chống HSV mạnh hơn, kéo dài hơn acyclovir.
Nhờ có tác dụng mạnh và kéo dài, trong đường uống, người ta thường thích dùng famciclovir, valacyclovir hơn.         
Ngoài 3 thuốc chính trên, người ta còn dùng một số thuốc khác như dùng loại mỡ chứa 3% denotivir trong tái phát herpes sinh dục, dùng moroxydin khi nhiễm HSV ở mắt.                                               
Tính an toàn của thuốc kháng HSV với người mang thai                                                         
 Nghiên cứu bằng cách tích lũy các số liệu dị tật trong những người mang thai phơi nhiễm thuốc trong danh bạ đăng ký thai (thường do nhà sản xuất tiến hành) hay trong những người mang thai phơi nhiễm thuốc trong quần thể chung, sau đó so sánh với tỉ lệ nền dị tật trong dân số.
Số liệu từ Danh bạ đăng ký thai acyclovir (từ 1984 - 1998, do hãng Glaxo welcom thực hiện): có 1.234 trường hợp người mang thai phơi nhiễm acyclovir trong 24 quốc gia, trong đó khảo sát 756 trường hợp phơi nhiễm acyclovir trong 3 tháng đầu thai kỳ, thấy: nguy cơ trẻ sinh ra bị khuyết tật là 3,2%. Tỉ lệ này tương đương với tỉ lệ khuyết tật nền trong dân số.
Số liệu từ những người mang thai phơi nhiễm trong quần thể chung (từ 1996 - 2008, do Đan Mạch thực hiện): trong số 837.795 trẻ em được thống kê có 1804 trẻ sinh ra từ bà mẹ bị phơi nhiễm acyclovir, valacyclovir, famciclovir trong 3 tháng đầu thai kỳ. Tỉ lệ dị tật ở nhóm trẻ này không có sự  khác biệt so với tỉ lệ dị tật ở nhóm trẻ sinh ra từ những bà mẹ mang thai không bị phơi nhiễm kháng sinh cũng không khác với tỉ lệ dị tật nền trong dân số. Kết quả tương tự cũng thấy ở trẻ sinh ra từ những bà mẹ bị phơi nhiễm các thuốc này trong 3 tháng giữa và cuối thai kỳ… Với dạng thuốc dùng ngoài: tỉ lệ dị tật ở nhóm trẻ sinh ra từ bà mẹ mang thai bị phơi nhiễm các kháng sinh trong 3 tháng đầu thai kỳ lần lượt với acyclovir và valacyclovir là 2,3% (65/2.850 trẻ) và 4,2% (5/118 trẻ), không khác biệt với tỉ lệ dị tật ở nhóm trẻ sinh ra từ các bà mẹ mang thai không bị phơi nhiễm. Những kết quả tương tự cũng được tìm thấy ở trẻ sinh ra từ các bà mẹ mang thai bị phơi nhiễm các kháng sinh này trong 3 tháng giữa và cuối thai kỳ (Paasternat B-2010). Tóm lại, acyclovir, valacyclovir, famicyclovir uống hay dùng ngoài an toàn với thai trong suốt thai kỳ.
Theo nguồn suckhoedoisong.vn

Dùng thuốc tránh thai khẩn cấp thế nào?

Thuốc tránh thai khẩn cấp đang được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, nhất là thời gian gần đây, nhiều trường hợp gây bàn cãi trong dư luận bởi “đã uống thuốc vẫn có thai”. Vậy thuốc tránh thai khẩn cấp sử dụng như thế nào để có hiệu quả?
Sử dụng trong trường hợp nào?
Viên thuốc tránh thai khẩn cấp là một biện pháp tránh thai cho phụ nữ sau khi quan hệ tình dục không được bảo vệ. Thuốc được chỉ định dùng khi hai người nam nữ mới có quan hệ tình dục với nhau không sử dụng biện pháp tránh thai hoặc có sử dụng bao cao su nhưng bao cao su bị thủng hay bị rách. Một số trường hợp khác cũng có thể sử dụng khi người phụ nữ đang sử dụng thuốc uống ngừa thai mà quên uống từ 2 ngày trở lên, đang sử dụng thuốc tiêm tránh thai mà thời gian tiêm bị chậm kỳ quy định. Ngoài ra, viên thuốc tránh thai khẩn cấp cũng được dùng khi đối tượng nữ bị cưỡng bức quan hệ tình dục.
Thuốc tránh thai khẩn cấp hoạt động như thế nào?
Loại thuốc tránh thai này cũng tương tự như thuốc viên tránh thai hàng ngày, nó có chứa hoóc-môn nữ progestin hormone. Tuy nhiên, hàm lượng kích thích tố progestin trong thuốc tránh thai khẩn cấp cao hơn nên ngay lập tức nó có tác dụng ngăn cản sự rụng trứng, tránh dẫn tới thụ thai.
Dùng thuốc tránh thai khẩn cấp thế nào? 1
Không nên sử dụng quá 2 liều viên tránh thai khẩn cấp trong vòng một tháng
Thuốc tránh thai khẩn cấp có an toàn không?
Ngày nay, biện pháp tránh thai khẩn cấp được coi là rất phổ biến và cũng khá an toàn nếu sử dụng theo đúng quy định và chỉ dẫn của thuốc cũng như của bác sĩ. Mặc dù có những bất lợi nhỏ khi dùng thuốc nhưng hầu như không có biến chứng nào trở nên nghiêm trọng.
Một số tác dụng phụ có thể gặp khi uống thuốc tránh thai khẩn cấp:
- Buồn nôn: tác dụng phụ phổ biến nhất.
- Chảy máu âm đạo bất thường.
- Đau dạ dày.
- Đau đầu.
- Chóng mặt.
- Đau ngực.
- Kinh nguyệt thất thường hoặc rong kinh. Trong trường hợp, chậm kinh kéo dài, bạn nên đi khám hoặc dùng que thử để loại bỏ khả năng có thai.
Dùng thế nào để đạt hiệu quả?
Loại viên thuốc chuyên dụng cho tránh thai khẩn cấp là loại thuốc có progestine liều cao, nó có tác dụng ngăn cản hoặc làm chậm quá trình rụng trứng, có thể ngăn chặn việc làm tổ của trứng, làm biến đổi lớp nội mạc tử cung và có khả năng ngăn ngừa sự thụ thai. Tác dụng của thuốc cũng làm cho dịch nhầy ở cổ tử cung bị đặc lại và dày lên để ngăn tinh trùng xâm nhập vào tử cung hoặc gây cản trở cho đường đi của tinh trùng hoặc trứng trong vòi trứng của tử cung.
Viên thuốc tránh thai khẩn cấp được uống càng sớm càng tốt, tốt nhất là trong vòng 72 giờ (3 ngày) sau khi có quan hệ tình dục không được bảo vệ. Đến ngày thứ 5 sau khi có quan hệ tình dục vẫn có thể sử dụng viên thuốc tránh thai khẩn cấp nhưng theo nguyên tắc nếu uống càng sớm thì hiệu lực tác dụng của thuốc sẽ càng cao và có thể làm giảm nguy cơ mang thai đến 85%.
Trên thị trường hiện nay, có hai loại viên thuốc tránh thai khẩn cấp thường được sử dụng là loại 2 viên và loại 1 viên. Loại 2 viên có chứa Levonorgestrel 0,75mg, có thể uống cùng một lúc 2 viên hoặc uống viên thứ hai sau viên thứ nhất 12 giờ. Loại 1 viên có chứa Levonorgestrel 1,5mg uống một lần. Sử dụng viên thuốc tránh thai khẩn cấp đôi khi có một số phản ứng phụ xảy ra như: gây buồn nôn, nôn mửa; một vài trường hợp bị đau đầu, chóng mặt, đau bụng, mệt mỏi, căng vú... Các tác dụng phụ này sẽ tự biến mất đi sau một vài ngày mà không cần can thiệp biện pháp y tế. Ngoài ra, viên thuốc tránh thai khẩn cấp cũng có thể gây ra chảy máu bất thường cho tới tận chu kỳ kinh nguyệt sau và kinh nguyệt có thể có sớm hoặc chậm.
Các bác sĩ cũng khuyến cáo, không nên sử dụng quá 2 liều viên tránh thai khẩn cấp trong vòng một tháng. Trong một số trường hợp nếu không có kinh nguyệt trở lại trong vòng 4 tuần sau khi sử dụng viên thuốc tránh thai khẩn cấp thì có khả năng đã mang thai, vì vậy phải đến ngay cơ sở y tế nhất để được tư vấn kịp thời.
Theo nguồn suckhoedoisong.vn

Có thai, ăn gì để khỏe?

Việc ăn uống của người mẹ là yếu tố quyết định cho sự phát triển của thai nhi, nhau thai, khối lượng máu, sự tạo sữa trong thời kỳ cho con bú và sự lớn lên của trẻ sau khi được sinh ra. Vì vậy, trong thời kỳ có thai,  người mẹ cần được cung cấp đầy đủ năng lượng và các chất dinh dưỡng.
Về chế độ ăn uống
Chế độ ăn cần tăng thêm năng lượng: Khi có thai, ngoài nhu cầu năng lượng cho người mẹ còn phải cung cấp năng lượng cho sự phát triển của thai nhi, nhất là thời kỳ 3 tháng cuối (2.550Kcal/ngày), như vậy, năng lượng tăng thêm hơn người bình thường mỗi ngày 350 Kcal (khoảng 1 bát cơm đầy).

Bổ sung chất đạm (protein) và chất béo: Ngoài cơm (và các lương thực khác) ăn đủ no, bữa ăn cho bà mẹ có thai cần có thức ăn để bổ sung chất đạm và chất béo giúp cho việc xây dựng và phát triển cơ thể của trẻ. Trước hết, cần chú ý đến các nguồn chất đạm từ các thức ăn thực vật như đậu tương, đậu xanh, các loại đậu khác, vừng và  lạc. Đây là những thức ăn có lượng đạm cao, lại có lượng chất béo nhiều giúp tăng năng lượng bữa ăn và giúp hấp thu tốt các nguồn vitamin tan trong dầu. Chất đạm động vật đáng chú ý là từ các loại thủy sản như tôm, cua, cá, ốc… và có điều kiện nên cố gắng có thêm thịt, trứng, sữa… Nhu cầu chất đạm cho phụ nữ trong thời kỳ mang thai 3 tháng cuối: 70g/ngày (đạm có chất lượng cao từ thịt, cá, trứng tương đương như sau: 100g thịt lợn, 150g cá hay cua, thêm 100g lạc, 1 quả trứng/ngày là đủ…). Nếu có điều kiện các bà mẹ nên uống bổ sung sữa (400-500ml) tốt nhất sữa bà bầu hoặc sữa đậu nành.
Khi mang thai bà mẹ nên bổ sung DHA, một chất béo không no cần thiết cho sự hoàn thiện hệ thần kinh, đặc biệt là thị giác. Các bà mẹ có thai bổ sung DHA có thể giúp tăng cường hệ miễn dịch của bé và giúp bé chống chọi với cảm lạnh. DHA có nhiều trong dầu cá, cá và thủy sản. Một số sản phẩm sữa bà bầu hiện nay cũng bổ sung thành phần DHA.
Bổ sung các chất khoáng
Các chất khoáng và vi khoáng là các vi chất chỉ cần một lượng nhỏ nhưng lại có vai trò quan trọng.
Canxi: Khi mang thai, bên cạnh nhu cầu canxi bình thường để cho hoạt động của cơ thể và để giúp xương vững chắc, người mẹ cần thêm canxi để cung cấp cho thai nhi tạo ra xương và mầm răng. Cơ thể người mẹ cần một lượng canxi gấp đôi lúc bình thường (nhu cầu 1.000mg/ngày). Thai càng lớn càng đòi hỏi phải cung cấp nhiều canxi. Nếu cơ thể người mẹ không đáp ứng được sẽ lâm vào tình trạng thiếu hụt canxi. Vì thế, trong ăn uống nên chú ý tới các loại thức ăn có nhiều canxi, phospho như tôm, cua, cá, trứng, phomai, sữa, các hạt họ đậu, rau xanh…
Sắt: Khi có thai, người mẹ thiếu máu do thiếu sắt sẽ có nhiều ảnh hưởng xấu tới thai nhi, có thể gây sảy thai, đẻ non, sinh con có cân nặng sơ sinh thấp và tai biến sản khoa như chảy máu sau sinh. Nguồn sắt từ cơ thể mẹ sẽ truyền sang con, điều này không chỉ tăng cường tốt sức khỏe cho mẹ mà còn là một cách có hiệu quả phòng chống thiếu máu do thiếu sắt cho trẻ em sớm ngay từ thời kỳ bào thai. Sắt có nhiều trong thịt, cá, trứng, các loại nhuyễn thể, ngũ cốc, đậu đỗ các loại và vừng, lạc. Sắt do thức ăn cung cấp thường không đáp ứng được nhu cầu sắt gia tăng trong suốt quá trình mang thai. Vì lý do này, bà mẹ có thai cần được uống bổ sung viên sắt theo hướng dẫn của thầy thuốc.
Kẽm: Kẽm tham gia vào nhiều chuyển hóa quan trọng trong cơ thể. Phụ nữ mang thai cần 10-20mg kẽm mỗi ngày. Nguồn cung cấp kẽm tốt nhất là thịt, cá, đặc biệt là hải sản. Các thức ăn thực vật cũng có kẽm nhưng hàm lượng thấp và khó hấp thu hơn.
Bổ sung các vitamin
Cần đặc biệt chú ý tới vitamin A, D, B1 và acid folic, các vitamin này cần thiết cho các chức năng chuyển hóa bình thường của cơ thể, đồng thời tham gia vào quá trình xây dựng tế bào và tổ chức, chúng cũng giúp phòng chống táo bón.
Vitamin A: Người phụ nữ có thai cần được đảm bảo đủ vitamin A trong suốt thời kỳ mang thai. Sau khi sinh, người mẹ cần đủ vitamin A để cung cấp vitamin A cho con qua sữa. Sữa, gan, trứng… là nguồn cung cấp vitamin A động vật, dễ dàng được hấp thu và dự trữ trong cơ thể để dùng dần. Các loại rau xanh, nhất là rau ngót, rau muống và các loại củ quả có màu vàng, màu đỏ như cà rốt, đu đủ, xoài, bí đỏ là những thức ăn có nhiều caroten còn gọi là tiền vitamin A, vào cơ thể sẽ chuyển thành vitamin A.
Vitamin D: vitamin D giúp cho sự hấp thu và chuyển hóa các khoáng chất canxi, phospho. Khi mang thai nếu cơ thể thiếu vitamin D dễ gây các hậu quả như trẻ còi xương ngay trong bụng mẹ vì chỉ khoảng 20% lượng canxi trong thức ăn  được hấp thu. Nhu cầu vitamin D 200 IU/ngày
Vitamin B1: Vitamin B1 là yếu tố cần thiết để chuyển hóa glucid. Ngũ cốc và các loại họ đậu là những nguồn vitamin B1 tốt. Để có đủ vitamin B1 nên ăn gạo không xay sát kỹ quá, bị mục, bị mốc, nên ăn nhiều đậu đỗ là cách tốt nhất bổ sung đủ vitamin B1 cho nhu cầu của cơ thể và chống được bệnh tê phù.
Acid folic (B9): cần thiết cho sự phát triển hệ thần kinh trung ương của thai, đặc biệt là trong những tuần lễ đầu tiên. Nếu thiếu có thể gây nên khuyết tật ống thần kinh. Trong thời gian mang thai, cơ thể người mẹ cần B9 gấp nhiều lần so với lúc bình thường, trong khi đó với dưỡng chất này cơ thể lại không tích trữ được vì vậy cần phải cung cấp đều đặn. Vitamin B9 có nhiều trong các loại rau xanh lá to, màu xanh đậm như: mồng tơi, cải xanh, cải cúc, lạc, hạt dẻ...
Ngoài ra, một số vitamin khác như vitamin C làm tăng sức đề kháng của cơ thể, hỗ trợ hấp thu sắt từ thức ăn góp phần phòng chống thiếu máu do thiếu sắt. Vitamin C có nhiều trong quả chín, rau xanh. Vitamin C dễ bị hao hụt nhiều trong quá trình nấu nướng nên hoa quả chín, nước ép trái cây, rau xanh sẽ là nguồn cung 
Theo suckhoedoisong.vn

Các nhóm thuốc điều trị nhồi máu cơ tim

Nhồi máu cơ tim (NMCT) là tình trạng hoại tử một vùng cơ tim do thiếu máu cục bộ cơ tim kéo dài, thường gây ra bởi sự hình thành cục máu đông trong lòng động mạch vành (ĐMV) gây tắc và làm hoại tử vùng cơ tim mà ĐMV đó nuôi dưỡng.  Điều trị NMCT gồm nhiều biện pháp, tuy nhiên, dù áp dụng biện pháp nào cũng không thể thiếu được các thuốc. Có thể chia các thuốc điều trị NMCT thành các nhóm sau:
Các thuốc ức chế ngưng tập tiểu cầu
Acid salicylic (biệt dược aspirin): Nên sử dụng aspirin càng sớm càng tốt, tốt nhất là ở phòng cấp cứu ngay khi bệnh nhân được chẩn đoán NMCT cấp. Dùng đường tĩnh mạch hoặc đường uống với liều cao có thể tạo ra hiệu quả điều trị nhanh chóng. Sau đó nên tiếp tục điều trị kéo dài (trừ khi có chống chỉ định).
Thienopyridine: Các thuốc ức chế tiểu cầu bao gồm ticlopidine clopidogrel có tác dụng ngăn cản quá trình hoạt hóa tiểu cầu, ngăn ngừa hình thành huyết khối. Thuốc được chỉ định dùng càng sớm càng tốt, ngay khi có các cơn đau thắt ngực. Đây là thuốc bắt buộc dùng trước và sau can thiệp nong động mạch vành và đặt giá đỡ (stent). 
Các nhóm thuốc điều trị nhồi máu cơ tim 1



Thuốc ức chế thụ thể glycoprotein IIb/IIIa của tiểu cầu
Các thuốc ức chế thụ thể glycoprotein IIb/IIIa của tiểu cầu như (abciximab, eptifibatide, tirofibran…) có tác dụng ức chế quá trình ngưng tập tiểu cầu. Do vậy, nhóm thuốc này rất lý tưởng để điều trị NMCT cấp. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của thuốc này là giá thành còn rất đắt.
Các thuốc chống đông
Heparin thường: Trong lâm sàng, heparin được dùng để phòng quá trình lan rộng của huyết khối, ngăn ngừa xuất hiện huyết khối mới, huyết khối đại tuần hoàn và phòng tắc lại ĐMV. Heparin cũng ngăn cản hình thành cục máu đông bền vững do ức chế các yếu tố làm ổn định fibrin. Khi sử dụng heparin, bệnh nhân cần phải được theo dõi chặt chẽ các chỉ số đông máu để điều chỉnh liều thuốc phù hợp, nếu quá liều có thể gây biến chứng chảy máu.
Heparin trọng lượng phân tử thấp: Heparin trọng lượng phân tử thấp có tác dụng gần giống như heparin thường, nhưng có ưu điểm là không cần phải thường xuyên xét nghiệm để đánh giá tác dụng chống đông. Do vậy, việc sử dụng đơn giản hơn, tác dụng kéo dài hơn. Ngoài ra, thuốc ít gây tai biến giảm tiểu cầu hơn so với heparin thường. Các thuốc hay dùng là lovenox, fraxiparin.
Nhóm thuốc nitrate
Tác dụng chủ yếu của các thuốc nhóm này là gây giãn tĩnh mạch ngoại vi dẫn đến giảm lượng máu về tim kết hợp với giãn các tiểu động mạch dẫn đến giảm sức cản ngoại vi, làm giảm tiêu thụ ôxy của cơ tim. Đối với động mạch vành, thuốc cũng có tác dụng giãn động mạch do vậy chống được hiện tượng co thắt mạch vành. Thuốc còn có tác dụng làm tăng cường tuần hoàn bàng hệ tới các khu vực cơ tim bị thiếu máu. Khi bị NMCT, ngay khi xuất hiện đau thắt ngực, cần dùng ngay loại xịt hoặc ngậm dưới lưỡi, tại bệnh viện, bệnh nhân sẽ được sử dụng nitroglycerin dạng tiêm tĩnh mạch bằng bơm tiêm điện với liều khởi đầu thấp và tăng dần tùy theo đáp ứng của bệnh nhân.
Thuốc chẹn thụ thể bêta giao cảm
Chẹn thụ thể bêta giao cảm là nhóm thuốc đối kháng cạnh tranh với các chất giao cảm, làm giảm tần số tim, giảm sức co bóp của cơ tim, do đó làm giảm nhu cầu tiêu thụ ôxy của cơ tim và góp phần làm giảm sự lan rộng vùng hoại tử cơ tim. Ngoài ra, các thuốc này còn có tác dụng phòng và làm giảm tai biến loạn nhịp ngoại tâm thu thất. Nhóm thuốc này không được dùng trong các trường hợp: nhịp chậm, tụt huyết áp, blốc nhĩ thất mức độ cao, hen phế quản, suy tim hoặc choáng tim.
Thuốc điều chỉnh rối loạn lipid máu
Chủ yếu là các thuốc thuộc nhóm statin, các thuốc này không những làm giảm các biến cố tim mạch ở bệnh nhân có rối loạn lipid máu mà còn giảm các biến cố này ở cả bệnh nhân không có rối loạn lipid máu. Do vậy, ngay cả khi các xét nghiệm về mỡ máu cho giá trị bình thường thì việc sử dụng thuốc cũng là hết sức cần thiết.
Thuốc chẹn (ức chế) kênh canxi
Các thuốc này được chia làm 2 nhóm có chống chỉ định khác nhau; đó là nhóm dihydropyridin và nhóm non dihydropyridin. Nhóm non dihydropiridin có tác dụng gây giảm sức co bóp của tim, chậm nhịp tim, do vậy cần tôn trọng chặt chẽ các chống chỉ định của nhóm thuốc này.
Thuốc ức chế men chuyển
Các thuốc nhóm này không những có tác dụng hạ huyết áp mà còn có tác dụng chống rối loạn chức năng thất trái, chức năng nội mạc mạch máu ở bệnh nhân sau NMCT do vậy làm giảm được các biến cố suy tim, NMCT tái phát sau nhồi máu. Do vậy, thuốc được chỉ định sớm ngay khi bị NMCT. Nhược điểm hay gặp nhất của các thuốc nhóm này là triệu chứng ho. Nếu ho ít mà bệnh nhân có thể chịu đựng được thì vẫn nên cho bệnh nhân dùng thuốc. Thuốc nên được dùng bắt đầu bằng liều thấp sau đó tăng dần liều tùy theo đáp ứng của từng bệnh nhân.
Các thuốc tiêu sợi huyết (tiêu cục huyết khối)
Như trên đã nói, các thuốc chống đông chỉ có tác dụng ngăn chặn không cho cục huyết khối hình thành hoặc lan rộng. Thuốc không có tác dụng trực tiếp trên cục huyết khối do vậy chỉ là thuốc dự phòng. Các thuốc tiêu cục huyết khối có tác dụng điều trị vì nó làm mất đi sự cản trở cơ học, làm tái lưu thông lại ĐMV để cung cấp máu trở lại cho vùng cơ tim bị thiếu máu trước đó. Muốn đạt hiệu quả tối ưu, phải dùng thuốc tiêu sợi huyết càng sớm càng tốt (không dùng thuốc nếu NMCT đã quá 12 giờ) dựa trên những tiêu chuẩn về điện tim mà không cần đợi các kết quả về men tim.
Hiệu quả của điều trị phụ thuộc vào thời gian từ khi khởi phát đau ngực đến khi được dùng thuốc tiêu sợi huyết. Chính vì vậy phải dùng thuốc tiêu sợi huyết càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, mặc dù dùng sớm và đúng chỉ định thì thuốc cũng chỉ làm mở thông được khoảng 1/2 các động mạch thủ phạm gây NMCT. Do vậy, ngày nay việc điều trị sớm NMCT cấp chủ yếu dựa vào can thiệp nong động mạch vành và đặt giá đỡ kết hợp với điều trị bằng các nhóm thuốc trên, phương pháp này cho kết quả tốt hơn cả về tỷ lệ sống cũng như hạn chế được các biến chứng lâu dài khác của NMCT.

Author Name

MKRdezign

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.